Chiến thuật Ngựa trong chiến tranh

Bằng chứng khảo cổ học đầu tiên về sử dụng loài ngựa trong chiến tranh có từ 4000-3000 năm TCN tại các vùng thảo nguyên của lục địa Á Âu (ngày nay là Ukraine, Hungary, and Romania). Không lâu sau khi thuần hóa ngựa, người dân ở các địa điểm này đã bắt đầu sống với nhau trong thị trấn tăng cường lớn để bảo vệ khỏi sự đe dọa của cướp cưỡi ngựa,[1] những kẻ có thể tấn công và tẩu thoát nhanh hơn những cư dân có lối sống định canh định cư[2][3]

Người du mục và loài ngựa gắn bó với nhau trên các thảo nguyên và sự lan rộng ngôn ngữ Ấn-ÂuĐông Âu ngày nay là kết quả của sự chinh phục các bộ lạc và các nhóm người khác.[4]Việc sử dụng ngựa trong tổ chức chiến tranh cũng đã được lịch sử ghi nhận từ sớm. Một trong những mô tả đầu tiên là tấm minh họa chiến tranh về trận Standard of Ur, đế chế Sumer, 2500 năm TCN, cho thấy ngựa đang kéo cỗ xe bốn bánh.[5].

Chiến xa

Bức họa trận Standard of Ur

Trong số các bằng chứng sớm nhất của việc sử dụng xe ngựa là những ngôi mộ của con ngựa và xe ngựa còn sót lại của nền văn minh Andronovo (Sintashta - Petrovka, hiện tại thuộc Nga hiện đại và Kazakhstan) vào khoảng 2000 năm TCN.[6]Bằng chứng tài liệu chữ viết cổ xưa nhất về việc sử dụng xe ngựa kéo là vùng Cận Đông cổ đại là văn bản của Anitta (con trai của Pithana vua người Hittite cổ đại, vào thế kỷ 18 TCN, trong đó đề cập đến sự kiện 40 đội ngựa tại cuộc bao vây thành phố Salatiwara.[7]Người Hittite trở nên nổi tiếng khắp thế giới cổ đại bởi sức mạnh của họ trên chiếc xe ngựa kéo. Chiếc xe ngựa được sử dụng rộng khắp trong chiến tranh tại lục địa Á-Âu gần như trùng với sự phát triển của cây cung tổng hợp (Composite bow) (làm từ sừng, gỗ, gân dát mỏng), vào khoảng 1600 năm TCN. Cải thiện hơn nữa trong bánh xetrục xe, cũng như đổi mới các loại vũ khí, dẫn đến thúc đẩy sửa dụng xe ngựa trong các trận chiến thời đại đồ đồng từ Trung Quốc đến Ai Cập[8]

Những kẻ xâm lược Hyksos mang xe ngựa kéo đến Ai Cập cổ đại năm 1600 TCN và người Ai Cập đã bắt đầu sử dụng nó tiếp sau đó.[9][10][11]Văn bản cổ nhất được bảo quản liên quan đến việc điều khiển những con ngựa chiến trong thế giới cổ đại là hướng dẫn của bậc thầy huấn luyện ngựa Kikkuli người Hittite, khoảng năm 1350 TCN, và mô tả tình trạng của các con ngựa kéo.[12][13] Xe ngựa kéo cũng tồn tại trong nền văn minh Minoan, khi họ kiểm kê danh sách lưu trữ tại thành phố Knossos đảo Crete,[14] khoảng năm 1450 TCN.[15]

Xe ngựa kéo cũng được sử dụng ở Trung Quốc vào thời triều đại nhà Thương (1600-1050 TCN), chúng xuất hiện trong ngôi mộ. Cao điểm của việc sử dụng xe ngựa vào ở Trung Quốc là vào thời Xuân Thu (770-476 TCN), và vẫn tiếp tục sử dụng cho đến thế kỷ thứ 2 TCN.[16]. Các mô tả về vai trò chiến thuật của xe ngựa kéo tại Hy Lạp cổ đạiLa Mã cổ đại là rất hiếm. Sử thi Iliad có thể mô tả đến việc rèn luyện tại Mycenae, sử dụng xe ngựa kéo cho việc vận chuyển các chiến binh đi đến các trận chiến chứ không phải dùng cho chiến đấu thực sự.[17] Sau đó, Julius Caesar đã xâm lược đảo Anh trong năm 55-54 TCN, có ghi chép các chiến binh cưỡi xe ngựa kéo người Anh ném lao, sau đó rời xe ngựa của mình để chiến đấu trên mặt đất.[18][19]

Kỵ binh

Sử dụng Khinh Kỵ tại trận FriedlandNapoleon trong trận Rivoli 1797, tranh vẽ của Henri Félix Emmanuel Philippoteaux (1815–1884)Video Tái hiện trận chiến Poltava năm 2009 ở Saint-Petersburg, nhân kỷ niệm 300 năm

Một trong những ví dụ sớm nhất của việc cưỡi ngựa trong chiến tranh là những Kỵ xạ hay Kỵ phi giáo bắt đầu từ triều Assyria, cai trị bởi Ashurnasirpal IIShalmaneser III.[20] Tuy nhiên, họ lại ngồi xa đằng sau lưng của ngựa, điều này cản trở họ điều khiển ngựa di chuyển nhanh, và mỗi con ngựa lại có một người giữ ngựa đứng trên mặt đất để tạo cho cung thủ được tự do khi sử dụng cung. Người Assyria phát triển kỵ binh để phục vụ cho phòng thủ trước các cuộc xâm lược của người du mục từ phương Bắc, như người Cimmeri (đã xâm nhập bán đảo Tiểu Á TK 8 TCN và dần chiếm lãnh thổ Urartu trong suốt triều đại Sargon II khoảng 721 TCN[21]).

Thời Hán có đội kỵ binh Hổ Báo Kỵ (虎豹骑) có thể nói là đội quân đặc chủng vào loại tinh nhuệ nhất thời Tam Quốc dưới trướng của Tào Tháo. Hổ Báo Kỵ do Tào Thuần chỉ huy, là lực lượng tinh nhuệ. Chính nhờ có sự giúp sức của đội Hổ Báo Kỵ, Tào Tháo mới có thể chém Viên Đàm đánh bại Lưu Bị cho tới diệt được đội thiết kỵ Tây Lương của Mã Siêu. Trong thời Tam Quốc, kỵ binh là binh chủng vào loại tốn kém nhất. Việc xây dựng một đội kỵ binh tinh nhuệ là cực kỳ tiêu tốn. Số lượng đội Hổ Báo Kỵ không được ghi chép cụ thể, biên chế của đội Hổ Báo Kỵ không nhiều.

Hổ Báo Kỵ là một đơn vị độc lập có thể tự tác chiến trên chiến trường, số lượng của đội Hổ Báo Kỵ theo suy đoán có thể vào khoảng 5-6 ngàn người. Trong cuộc chiến giữa Tào Tháo và quân Quan Tây của Mã Siêu cũng chính đội Hổ Báo Kỵ lập công trạng lớn trong việc tiêu diệt viên tướng lừng danh họ Mã. Quân Quan Tây của Mã Siêu cũng có đội kỵ binh gọi là "Tây Lương thiết kỵ" nổi tiếng, Mã Siêu dùng sức một châu đối đầu với toàn bộ Tào Ngụy tất cả dựa vào Tây Lương thiết kỵ, đủ thấy sức mạnh của lực lượng này. Tuy nhiên, Tây Lương thiết kỵ vẫn không địch lại sức mạnh của đội Hổ Báo Kỵ của họ Tào. Quân Tào dùng khinh binh khiêu chiến. Sau một thời gian khi cuộc chiến đã kéo dài, dùng đội Hổ Báo Kỵ tấn công chớp nhoáng, phá quân của Mã Siêu[22].

Giáp mã

Trong binh pháp phương Đông việc sử dụng chiến mã và đánh trận bằng kỵ binh chủ yếu dựa vào phương châm "Tốc chiến, tốc quyết", đánh nhanh, rút lui nhanh và tận dụng yếu tố bất ngờ. Mã chiến thì có thể phát huy thế mạnh ở đồng bằng, đường giao thông thuận lợi, nhiều ngả đi nhiều ngõ đến, và rất kỵ chốn nê địa, tức địa hình khó khăn, hiểm trở, nhiều đầm lầy. Trong phép dùng mã chiến có phép: "liên hoàn giáp mã", theo phép đánh này thì người ta cho ngựa mang giáp sắt phủ kín hết thân mình, chỉ hở có đôi mắt, và cứ từ 5 đến 10 giáp mã thì sắp thành một hàng chữ "Nhất".

Trước ức ngựa có dắn một đòn cản đính con dao nhọn hoắt. Trân lưng mỗi con ngựa có một chiến binh mặc áo giáp, cầm dao hoặc cầm thương, mang cung tên, khi xông trận thì cho ngựa xông vào quân địch khiến cho đối phương hoảng loạn, tan rã hàng ngũ, thế rồi dùng dao thương, cung tên tiêu diệt. phép "liên hoàn giáp mã" chủ yếu uy hiếp tinh thần địch, đánh chọc thủng phòng tuyến quân thù và càn quét đối phương, công dụng như thiết giáp xa thời nay. Tuy nhiên phép "liên hoàn giáp mã" cũng có chỗ yếu của nó, là sự xoay chuyển khó khăn, di động chậm chạp. Để phá pháp "liên hoàn giáp mã" phải dùng câu liêm thương phối hợp với pháo lớn làm cho ngựa phải kinh hoàng phóng chạy, khi ấy chỉ dùng cân liêm thương móc vào chân ngựa. Cũng có thể dùng phép "lăn khiên" mà lăn tròn dưới mặt đất rồi dùng mã tấu chặt đứt chân ngựa.